Chữ Nôm có một bề dày lịch sử lớn, nó cũng phản ánh giai đoạn rất đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy vậy không phải thế hệ ngày nay ai cũng biết đến loại chữ này. Bài viết này sẽ giới thiệu cho các bạn về loại hình chữ này và quá trình phát triển của nó xuyên suốt chiều dài lịch sử nhé!
Chữ Nôm là gì?
Chữ Nôm (𡨸喃), còn có tên gọi khác là Quốc âm (國音) hay chữ Quốc ngữ (國語) là một loại văn tự ngữ tố – âm tiết (tập hợp nhiều ký hiệu văn tự có đặc điểm là một ký hiệu đó đã biểu thị được toàn bộ một từ hay một ngữ tố). Loại chữ này dùng để viết tiếng Việt. Bộ chữ này được người Việt xưa sáng tạo ra dựa trên chữ Hán, bộ âm thủ, âm đọc cùng nghĩa từ vựng trong tiếng Việt.
Định nghĩa cũng như tên gọi
Đến tận bây giờ vẫn chưa có định nghĩa rõ ràng về bộ chữ này. Có hai luồng ý kiến chính cho rằng:
- Chữ Nôm là một bộ chữ Hán để viết tiếng Việt và một bộ chữ mới được tạo ra để viết từ vựng gọi là Tiếng Việt thuần tuý. Theo nghĩa này, chữ Hán là tập hợp con của chữ viết Nôm.
- Một ý kiến khác cho rằng, chữ Nôm là một bộ chữ khác đại diện cho các từ gọi là thuần Việt, chữ Hán không có chữ nào đại diện cho chúng. Theo ý kiến này, chữ Hán (đại diện cho từ Hán Việt) và chữ Nôm (đại diện cho từ thuần Việt) là hai bộ riêng biệt. Hai bộ ký tự này được gọi là “bộ ký tự Hán Nôm”.
“Chữ” và “Nôm” trong chữ Quốc ngữ đều là chữ Hán cổ. Từ này xuất phát từ cách phát âm tiếng Trung cổ của từ “tự” (“văn học”). Từ nôm xuất phát từ cách phát âm trung tâm của các chữ Hán và Việt Nam là nam. Ý nghĩa của tên Nôm là vì đây là từ dùng để ghi lại tiếng nói của người dân miền Nam (tức là người Việt Nam, trước đây người Việt tự coi mình là người miền Nam, còn tiếng Hán là người Bắc).
Có bao nhiêu loại chữ Nôm
Theo các tài liệu, có khoảng 80.000 ký tự Nôm vào giữa thế kỷ 17. Bảng tra chữ Nôm (xuất bản năm 1976) cho thấy có 8.187 chữ. Cuốn “Từ điển chữ Nôm dẫn giải” của Giáo sư Nguyễn Quang Hồng (2015) gồm 9.450 chữ viết Nôm (trong đó có gần 3.000 chữ tự tạo) và 14.519 âm tiết tiếng Việt.
Tại sao số liệu thống kê của tôi không nhất quán? Các con số trên là khác nhau bởi vì chữ viết nôm không được chuẩn hóa. Tuy nhiên, điều này cho biết rằng tổ tiên của chúng ta đã tạo ra rất nhiều từ. Chữ viết Nôm cổ ghi lại rất nhiều âm sử dụng trong tiếng Việt.
Các đặc điểm chính của quá trình phát triển chữ Nôm
Học giả Đào Duy Anh đã từng chỉ ra trong sách “Chữ Nôm – Nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến”: Ở thời điểm này, phông chữ này đã là một tác phẩm nghệ thuật. Là cây đàn thuần túy duy nhất của Việt Nam để ghi lại lịch sử và văn hóa của đất nước. Người Việt Nam đã phát minh ra chữ Nôm và dùng nó để biểu đạt ngôn ngữ thuần Việt, tạo nên chữ Quốc ngữ chung thời bấy giờ.
Phát triển
Ban đầu lúc xuất hiện, chữ viết Nôm đơn giản mượn y nguyên dạng chữ Hán để ghi chép âm tiếng Việt cổ. Ví dụ: từ 别 âm Hán gọi là biệt, nghĩa là phân biệt, ly biệt nhưng nó được dùng để ghi từ “biết”.
Trong suốt 500 năm từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19 sau thời Lê, số lượng tác phẩm viết bằng chữ Nôm tăng dần. Các tác phẩm này rất đa dạng, thơ Nôm diễn tả hoàn hảo mọi tâm tư tình cảm của người Việt Nam, có lúc hào hùng, có lúc bi tráng, đôi khi đàng hoàng, đôi khi vui tươi.
Trước đó – Thế kỷ 17
Ông cha ta ngày xưa đã sử dụng loại chữ này để ghi chép văn thơ, lịch sử. Từ giai đoạn thế kỷ 15 đến thế kỷ 17 là thời kỳ bùng nổ của loại chữ này, đa số hầu hết thi văn lưu truyền được viết bằng loại chữ này.
Thế kỷ 18 – Thế kỷ 19
Trong suốt 14 năm từ 1788 đến 1802, nhà Tây Sơn đã phải soạn thảo tất cả các văn bản hành chính bằng chữ Nôm với sự hỗ trợ của Hoàng đế Quang Trung. Không giống như các tài liệu văn học, y học và ngôn ngữ học cũng được ghi lại bằng chữ viết Nôm, mặc dù tương đối ít hơn. Trong các hồ sơ hành chính hàng ngày như sổ sách, công văn,… đôi khi xen chữ viết Nôm nhưng nhìn chung vẫn là văn bản Hán Việt.
Thời kỳ suy yếu phát triển chữ Nôm
Dưới các chính quyền thuộc địa và bảo hộ của Pháp, ở Nam Kỳ vào cuối thế kỷ 19 và Bắc Kỳ và Trung Kỳ vào đầu thế kỷ 20, chữ Hán và chữ Nôm bắt đầu suy giảm vị thế. Chữ Quốc ngữ được chính quyền thực dân bảo hộ thông qua, lệnh xóa bỏ chữ Hán và chữ Nôm được Pháp ban hành.
Hiện nay
Chữ Việt và chữ Hán hiện chưa được giảng dạy rộng rãi trong hệ thống giáo dục phổ thông của Việt Nam, nhưng vẫn được dạy và học trong các chuyên ngành tiếng Hán – chữ Nôm ở bậc đại học. Hai loại chữ này cũng do một số hội phong trào dạy và tự học, chủ yếu là học cách đọc bằng tiếng Việt hiện đại, cách viết bằng bút lông, học nghĩa chữ, đọc và viết tên người.
Cách thức cấu tạo chữ Nôm
Chữ Nôm có rất nhiều cách cấu tạo nên từ đơn giản đến phức tạp, bao gồm:
- Mượn toàn bộ âm đọc (âm Hán Việt) cùng nghĩa của chữ Hán.
- Mượn chữ đồng âm hoặc chữ Hán cận âm để ghi âm.
- Mượn những chữ Hán đồng nghĩa hay chữ cận nghĩa.
- Tự tạo chữ – chữ hợp thể.
- Mượn những âm của chữ viết Nôm đã có sẵn.
Từ các cách thức đó mà người Việt xa xưa đã có thể tạo ra vô số kể loại chữ Nôm dùng phổ biến trong thời kỳ bấy giờ.
Những cách tạo chữ Nôm
Vì không thể nào kể hết toàn bộ nên bài viết này sẽ giới thiệu đến các bạn một vài cách tạo ra chữ Nôm. Hãy cùng điểm qua nhé!
Từ Hán Việt: giống nhau về âm và nghĩa (đọc theo âm)
Mượn toàn bộ âm đọc (âm Hán Việt) cùng nghĩa của chữ Hán. Âm Hán Việt gồm 3 loại khác nhau:
- Âm tiêu chuẩn: có mặt từ tiếng Hán thời nhà Đường. Ví dụ: “ông” 翁, “bà” 婆
- Âm tiếng Hán Việt cổ: xuất phát từ những ngữ âm tiếng Hán trước thời nhà Đường. Ví dụ: “mùa” 務 (vốn âm Hán Việt tiêu chuẩn gốc là “vụ”)
- Âm Hán Việt đã được Việt hóa: các âm Hán gốc đã bị biến hóa cách phát âm do ảnh hưởng của quy luật ngữ âm tiếng Việt. Ví dụ: “ghế” 几 (âm Hán Việt tiêu chuẩn phải là “kỉ”).
Sử dụng âm Hán, không sử dụng nghĩa (giả tá)
Ghi tiếng Việt bằng cách mượn từ chữ Hán đồng âm hoặc cận âm. Âm vay mượn có thể là âm Hán Việt chuẩn, âm Hán Việt cổ, hoặc âm Hán Việt đã Việt hóa. Khi đọc, bạn có thể mượn hoặc chuyển âm thanh. Ví dụ: Chữ 能 – năng, nghĩa là có tài và có năng lực lại được dùng để ghi từ “hay” trong cụm “văn hay chữ tốt”.
Dùng nghĩa của chữ Hán, không dùng âm đó (huấn đọc)
Ghi chữ tiếng Việt bằng cách mượn từ đồng nghĩa hoặc từ tương đương của tiếng Trung. Ví dụ, từ “dịch” 腋 có nghĩa là “nách” được sử dụng để kết hợp từ “nách”’ thành “hôi nách”.
Chữ tự sáng tạo – Chữ hợp thể
Đây là một từ kết hợp hai hoặc nhiều chữ cái khác thành một chữ cái. Các từ tạo thành một chữ ghép có thể có chức năng như thanh phù (bộ phận thể hiện âm đọc trong chữ ghép) hoặc là nghĩa phù (bộ phận thể hiện ý nghĩa của chữ ghép).
Ví dụ về chữ ghép: 蹎 – chân (“chân” trong “tay chân”): chữ này được ghép từ chữ “túc” 足 và chữ “chân” 真. “Túc” 足 nghĩa là “chân” được dùng để biểu thị ý nghĩa của chữ ghép. Chữ “chân” 真 (“chân” trong “chân thành”) thì đồng âm với “chân” trong “chân tay” được dùng làm thanh phù thể hiện âm đọc của chữ ghép.
Lược bớt đi nét một chữ Hán để đọc chệch đi
Cắt bỏ một dòng chữ Hán để cho biết rằng bạn muốn có một cách đọc khác. Lược đi ít nhất một nét của một chữ Hán cụ thể để cảnh báo người đọc rằng ký tự đó nên đọc sai đi. Ví dụ:
- chữ “ấy” 𧘇: bỏ đi nét “丶” trên đầu chữ “ý” 衣. Việc bỏ đi nét bút này làm cho người đọc biết chữ này không đọc là “y” hay “ý” (chữ 衣 có hai cách đọc là “y” hoặc “ý”) mà cần đọc sai đi.
- “khệnh khạng” 𠀗𠀖: chữ “khệnh 𠀗 chính là chữ “cộng” 共 bị bớt nét phẩy “㇒”, chữ “khạng” 𠀖 thì là chữ “cộng” 共 đã bị lược bớt nét mác “㇔”.
- “khề khà” 𠀫𠀪: chữ “khề” 𠀫 là chữ “kỳ” đã bị cắt bớt nét phẩy “㇒”, chữ “khà” 𠀪 là chữ “kỳ” bỏ đi nét mác “㇔”.
Mượn những âm của chữ Nôm đã có sẵn
Sử dụng các chữ viết Nôm có sẵn để ghi lại các từ tiếng Việt đồng âm hoặc từ phụ nhưng khác nghĩa, hoặc từ đồng nghĩa nhưng phát âm khác với từ gốc. Khi đọc, nó có thể được phát âm giống như một từ mượn hoặc đọc khác. Ví dụ:
- Đọc tương tự âm đọc của chữ được mượn: chữ “chín” 𠃩 (“chín” là số đếm) được dùng để chỉ từ “chín” trong “nấu chín”.
- Đọc sai âm: chữ “đá” 𥒥 (“đá” trong “cục đá”) được dùng để ghi chép từ “đứa” trong “đứa bé”.
Chữ Nôm của các dân tộc khác
Ở Việt Nam, không chỉ có người Kinh, mà các nhóm dân tộc thiểu số khác như người Thái, người Dao,… đã sáng tạo ra chữ viết Nôm của riêng họ. Ngay cả người Tráng của Trung Quốc cũng sáng tạo ra chữ viết Nôm dựa trên chữ Hán để lưu lại ngôn ngữ của chính mình.
Chữ Nôm của dân tộc Tày
Chữ viết Nôm của người Tày là sự sáng tạo tập thể của nhiều thế hệ trí thức dân tộc Tày, ra đời từ thế kỷ XV – XVI, phát triển rực rỡ ở Cao Bằng vào thời Mạc cát cứ và tồn tại cho đến ngày nay. Cũng như các dân tộc anh em khác hiện nay đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, người Thái Bắc Kạn từ lâu đã biết sử dụng hệ thống chữ Hán để ghi âm tiếng Thái, được các nhà nghiên cứu gọi tắt là chữ Nôm Thái ở đây.
Chữ Nôm đối với người dân tộc Ngạn
Mặc dù người Ngạn thuộc dân tộc Thái ở tỉnh Cao Bằng, nhưng họ có ngôn ngữ gần với người Giáy và sử dụng hệ thống chữ viết Nôm, xen lẫn chữ Hán với thơ. Chữ viết Nôm của các dân tộc: Kinh, Tày, Nùng, Ngạn đều có cấu trúc giống nhau và được ghép theo phương pháp Lục thư theo các cách: tượng hình, từ tượng thanh.
Kết luận
Chữ Nôm là một trong những di tích rất riêng về nền văn hóa lịch sử của dân tộc Việt Nam. Ngày nay, trên thế giới còn rất ít người đọc được chữ viết Nôm. Do đó, khối tài liệu Hán – Nôm từ thế kỷ 10 được bảo quản trong các kho lưu trữ và thư viện công cộng, chẳng hạn như tài liệu hành chính, tài liệu lịch sử, sách báo chưa được sử dụng hết.